
Cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947) - nhà nho yêu nước,
Quyền Chủ tịch nước 1946. Ảnh tư liêu, Nguồn: Trang điện tử Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh, tiêu chí số một để giao việc nước là nhân cách. Người thay mình điều hành quốc gia phải là “trụ cột đạo đức” đủ sức nâng đỡ niềm tin xã hội. Huỳnh Thúc Kháng hội đủ điều ấy từ rất sớm: 1904 đỗ Phó bảng, sớm rời đường làm quan để dấn thân cải cách trong phong trào Duy Tân cùng Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp; 1908 bị bắt, bị đày Côn Đảo gần 13 năm; ra tù (1921) hoạt động nghị trường và năm 1927 sáng lập báo Tiếng Dân ở Huế. Những năm báo chí (1927–1943) rèn nên một phong cách: mực thước, trọng chứng cứ, dám “để trống” phần bị kiểm duyệt - một tuyên ngôn thầm lặng về tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật.
Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh mời cụ ra Hà Nội, nhấn mạnh đây là ý kiến chung của nhiều lực lượng vì đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm Cụ - đó là sự ghi nhận đối với một uy tín xã hội được tích lũy trong nửa thế kỷ dấn thân.
“Đạo đức, danh vọng” – nền tảng của sự ủy thác quyền lực
Danh vọng của Huỳnh Thúc Kháng không đến từ quyền lực ban phát, mà từ tín nhiệm xã hội của một nhà nho cải cách. Tại Viện Dân biểu Trung Kỳ, ông giữ tác phong thẳng thắn; ở Tiếng Dân, ông kiên trì lối viết có trách nhiệm với công chúng, coi sự thật là tối thượng. Chính “vốn xã hội” đó khiến ông trở thành điểm tựa dung hòa các khuynh hướng trong Chính phủ liên hiệp buổi đầu, nơi cần một ngọn cờ đạo đức để đoàn kết.
Đặc biệt, trong nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng là người học rộng, chí bền, đạo đức rất cao - “giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan”. Dù câu chữ thường được trích lược trong nhiều tài liệu báo chí phổ biến, điểm cốt lõi là: nhân cách và danh vọng xã hội là căn cứ để “chọn mặt gửi vàng”. Ý nghĩa thời sự của tiêu chí này hôm nay là: quyền lực muốn bền phải đứng trên nền đạo đức được kiểm chứng bằng việc làm và thời gian.
Bản lĩnh điều hành trong bão tố: “dĩ bất biến, ứng vạn biến” – từ nguyên tắc đến thực hành
Năm 1946, Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau; từ 31/5 đến 21/10, cụ Huỳnh được ủy nhiệm Quyền Chủ tịch nước. Tình hình không thể khó hơn: ngân khố cạn, nội phản quấy phá, đối ngoại phức tạp, dân trí còn bỡ ngỡ với nền độc lập non trẻ. Câu căn dặn “dĩ bất biến, ứng vạn biến” tóm gọn chiến lược: giữ vững mục tiêu độc lập - đoàn kết làm “bất biến”, còn sách lược thì linh hoạt “vạn biến”.
Ở bình diện nội trị, Huỳnh Thúc Kháng siết kỷ luật hành chính, coi trách nhiệm giải trình là nguyên tắc: việc công phải đúng hạn, có đầu mối, có người chịu trách nhiệm. Dân chủ - theo ông không mâu thuẫn với kỷ luật; trái lại, dân chủ cần kỷ luật để hiệu lực. Ở bình diện đối nội – an ninh, ông kiên quyết trấn áp các mưu đồ lật đổ, bảo vệ chính quyền non trẻ bằng pháp luật, đồng thời chủ trương đối thoại, tạo không gian cho ý kiến khác biệt nhưng cùng mục tiêu quốc gia. Ở bình diện đối ngoại, ông giữ giọng điệu điềm đạm, thông điệp nhất quán: bảo vệ chủ quyền, theo đuổi hòa bình. Những lựa chọn ấy cho thấy khả năng chuyển hóa nguyên tắc thành năng lực quản trị - bí quyết để bộ máy non trẻ không rơi vào hỗn độn giữa bão tố chính trị.
Khi Hồ Chí Minh trở về, Người ghi nhận nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng, nhiều việc khó đã được giải quyết, công cuộc kiến thiết tiến bộ - một sự đánh giá xác nhận rằng sự ủy thác không dựa trên cảm tính, mà được kiểm chứng bằng kết quả điều hành.
“Nhà báo – chính khách”: cầu nối đại đoàn kết và chuẩn mực truyền thông - công vụ
Ít có chính khách Việt Nam trong giai đoạn này hội đủ ba vai trò: chủ bút một tờ báo lớn, nhà quản trị nhà nước, và người đi cơ sở như Huỳnh Thúc Kháng. Từ Tiếng Dân, ông mang vào chính trường một bộ tiêu chuẩn truyền thông công vụ hiện đại: minh bạch, chính xác, tôn trọng công chúng. Ông hiểu rằng công luận có thể hoài nghi không phải vì không yêu nước, mà vì thiếu thông tin chuẩn; vậy nên, thông tin của chính quyền phải kịp thời - dễ hiểu - kiểm chứng. Ngay cả khi buộc phải im lặng vì an ninh, sự im lặng ấy cũng phải trung thực: không đánh lạc kỳ vọng, không tô hồng thành tích.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng với tờ báo Tiếng Dân (1927), Ảnh tư liệu, Nguồn: Báo Quân đội nhân dân
Sau Toàn quốc kháng chiến (12/1946), ông làm Đặc phái viên Chính phủ ở Nam Trung Bộ (Quảng Ngãi), đi từng làng xóm vận động kháng chiến - kiến quốc. Ông qua đời tại Quảng Ngãi năm 1947, yên nghỉ bên Thiên Ấn, nay là điểm đến tưởng niệm, giáo dục truyền thống. Nhìn dưới góc độ biểu tượng, Huỳnh Thúc Kháng là một cây cầu: nối truyền thống Nho học với nhà nước pháp quyền; nối báo chí trí thức với truyền thông công vụ; nối trí thức đô thị với quần chúng nông thôn; nối các khuynh hướng khác biệt trong mặt trận dân tộc thống nhất.
Ba bài học thời sự cho công tác cán bộ hôm nay
Một là, lấy đạo đức làm thước đo tín nhiệm. Tài năng quan trọng, nhưng đạo đức quyết định độ bền của quyền lực. Bài học Huỳnh Thúc Kháng cho thấy uy tín chính trị không thể dựng trên kỹ thuật diễn ngôn; nó kết tinh từ đời sống liêm chính và hành xử vì dân - thứ “vốn chính trị” khó thay thế bằng tuyên truyền.
Hai là, biến nguyên tắc thành năng lực tổ chức. Nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” sẽ vô nghĩa nếu không đi vào quy trình. Cách làm của Huỳnh Thúc Kháng là: đặt mục tiêu bất biến (độc lập–đoàn kết), thiết kế linh hoạt trong thực thi (vạn biến), nhưng ở từng mắt xích đều ràng buộc trách nhiệm giải trình.
Ba là, xây dựng văn hóa truyền thông công vụ liêm chính. Trong kỷ nguyên số, thông tin chạy nhanh hơn quyết định. Lấy cảm hứng từ Tiếng Dân, truyền thông chính thống phải kịp thời, chính xác, mực thước, tránh cực đoan - càng khó càng phải giữ chuẩn mực ngôn từ. Chính sự thẳng thắn – mực thước ấy tạo năng lực đồng thuận, bền vững hơn bất kỳ khẩu hiệu ngắn hạn nào.
Huỳnh Thúc Kháng được Bác Hồ “chọn mặt gửi vàng” trước hết vì bản lĩnh nhân cách đã được thử lửa qua lao tù, nghị trường và tòa soạn: giàu sang không xiêu lòng, nghèo khó không nản chí, oai vũ không sờn gan. Từ phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ông biến nguyên tắc thành năng lực tổ chức: giữ mục tiêu độc lập - đoàn kết làm điểm bất biến; trong điều hành thì siết kỷ luật, đề cao trách nhiệm giải trình, lấy pháp luật làm trục, đặt dân làm chủ thể quyết sách. Là nhà báo - chính khách, ông kiến tạo chuẩn mực truyền thông công vụ liêm chính: minh bạch, mực thước, trọng chứng cứ, biết im lặng đúng lúc để không làm lệch kỳ vọng công chúng. Từ xứ Quảng đến Thiên Ấn, từ Tiếng Dân đến Chính phủ, ông như cây cầu đại đoàn kết. Nhắc 1/10 là nhắc cách chọn người để chọn tương lai.